Bài tham khảo. Truyện ngắn Vợ nhặt của Kim Lân được xây dựng trên một tình huống độc đáo, lạ lùng. Trong nạn đói khủng khiếp, khi cái chết đe dọa và trở thành nỗi ám ảnh của tất cả mọi người thì anh cu Tràng bằng một cách vô tình đã có được vợ, nói cách khác là "nhặt" được vợ.
- Mùi khói cay nhèm của bếp rơm, bếp rạ ấy đã đi vào kí ức của Bằng Việt từ những ngày thơ bé. Đó cũng là một tuổi thơ cơ cực gắn liền với một giai đoạn đau thương, khủng khiếp nhất của đất nước bởi bóng đen ghê rợn của nạn đói năm 1945.
Bữa cơm đã cho thấy sự nghèo đói của một gia đình ở tầng lớp dưới cùng của xã hội. Đồng thời việc miêu tả bữa ăn cũng cho thấy một hiện thực ở nông thôn Việt Nam những năm 1945. Nạn đói hoành hành, đẩy con người vào cuộc sống nghèo đói.
Các lĩnh vực sản xuất được hồi phục. Cuối năm 1945, nạn đói cơ bản được đẩy lùi, năm 1946 đời sống nhân dân được ổn định và có cải thiện. Tháng 11-1946, giấy bạc "Cụ Hồ" được phát hành. Đã mở lại các trường lớp và tổ chức khai giảng năm học mới.
Nếu như trong những năm đói kém của nạn đói 1945, bà là người gắn bó với tác giả nhất, yêu thương tác giả nhất thì trong tám năm ròng của cuộc kháng chiến chống Mĩ, tình cảm bà cháu ấy lại càng sâu đậm: Mẹ cùng cha bận công tác không về
HOANHAP.VN - Là cựu chiến binh chống Mỹ ở chiến trường Bình Trị Thiên khốc liệt, khi về hưu thì ông Tuyến cũng không chọn nghỉ ngơi cùng con cháu, đã 15 năm nay, ông chọn đến chăm sóc cho ngôi mộ tập thể nơi mai táng những nạn nhân nạn đói thảm khốc năm 1945. Lớn lên
nPbrrW. Thơ Về Nạn Đói 1945 ❤️️ Bài Thơ Đói Của Bàng Bá Lân ✅ Tuyển Tập Những Bài Thơ Viết Về Nạn Đói Năm Ất Dậu 1945 Hay Nhất. Nội Dung Bài Thơ Đói Của Bàng Bá LânCác Bài Thơ Về Nạn Đói 1945 Bài thơ ĐóiTác giả Bàng Bá Lân Năm Ất Dậu, tháng ba, còn nhớ mãiGiống Lạc Hồng cực trải lắm đau thương!Những thây ma thất thểu đầy đường,Rồi ngã gục không đứng lên vì… đói!Đói từ Bắc Giang đói về Hà Nội,Đói ở Thái Bình đói tới Gia Lâm. Khắp đường xa những xác đói rên nằmTrong nắng lửa, trong bụi lầm co đống giẻ chỉ còn đôi hố mắtĐọng chút hồn sắp tắt của thây ma;Những cánh tay gầy quờ quạng khua khoaNhư muốn bắt những gì vô ảnh,Dưới mớ tóc rối bù và kết bánh,Một làn da đen xạm bọc xương nhe ra như những chiếc đầu lâu,Má hóp lại, răng hằn sâu gớm trẻ gái trai không còn phân biệt,Họ giống nhau như là những thây ma,Như những bộ xương còn dính chút daChưa chết đã bốc xa mùi tử khí!Mùi nhạt nhẽo nặng nề kỳ dị,Một mùi tanh lộn mửa thoảng mà kinh.Mùi tanh hôi ám ảnh mãi bên mìnhKhiến cả tháng ăn không còn ngon bữa!Những thây đó cứ xỉu dần tắt thở,Nằm cong queo mắt vẫn mở trừng con ngươi còn đọng lệ rưng rưng,Miệng méo xệch như khóc còn dang thây chết ba hôm còn nằm đó,Ruồi tám phương bâu lại khóc vo vo…Rồi ven đường đôi nhát cuốc hững hờĐắp điếm vội những nấm mồ nông dối! Đói từ Bắc Giang đói về Hà Nội,Đói ở Thái Bình đói tới Gia ven đường những nấm mộ âm thầmĐược đánh dấu bằng ruồi xanh cỏ nấm mộ quá nông trơ hài cốt,Mùi hôi tanh nồng nặc khắp không vài trận mưa, nước xối chan chan,Ôi, thịt rữa xương tàn phơi rải rác! Tại Hà Nội cũng như bao tỉnh khác,Những thây ma ngày lết đến càng đông;Đem ruồi theo cùng hơi hớm tanh nồng,Rồi ngã gục khắp đầu đường cuối sớm sớm cửa mỗi nhà hé ngỏ,Rụt rè xem có xác chết nào chăng!Từng chiếc xe bò bánh rít khô khanMỗi sáng dạo khắp nẻo đường nhặt chồng chất lù lù như đống rác,Đó đây thò khô đét một bàn chânHay cánh tay gầy khô đét teo rănGiơ chới với như níu làn không khí,Như cầu cứu, như vẫy người chú ý…Có hơi thở tàn thoi thóp chưa thôi,Có tiếng cụa mình, tiếng nấc… Những tròng ngươiNhìn đẫm lệ người chôn người chửa chết!Bốn ngoại ô mở ra từng dẫy huyệtĐược lắp đầy bằng xác chết… thường như mây bay rợp cả một miền…Chết! Chết! Chết! Hai triệu người đã chết! Họ là những người quê non nước Việt,Sống cần lao bên ruộng lúc đồng xanh rờn nhờ họ đổ mồ hôi,Nước Việt sống nhờ mồ hôi họ ấy, thuở Nhật, Tây cùng đô hộ,Chúng thi nhau cướp lúa của dân lúa rồi, hết sạch cả khoai ngô;Hết củ chuối, hết nhẵ khô cả sắn!Ngày giáp hạt không còn chi để nhấm,Đói cháy lòng, đành nhá cả mo cau;Nhá cả bèo và nuốt cả khô dầu!Đói! Đói! Đói! Người nhao lên vì đói! Đói từ Bắc Giang đói về Hà Nội,Đói ở Thái Bình đói tới Gia biệt quê hương, lê gót âm thầmTrên rải rác mọi nẻo đường đất gia đình dắt díu nhau lê bướcĐi lang thang mong sống tạm qua lúa lên hương, bông trĩu đầu tháng nữa sẽ hồi cư sẽ sống!Nhưng đau đớn hỡi ơi là ảo mộng!Họ ra đi hy vọng có ngày về!Nhưng chẳng bao giờ về nữa, hỡi người quê!Dần lả gục khắp đầu đường xó chợ! Cùng lúc ấy cũng trên đường rộn rã,Từng đoàn xe chuyên chở thóc vàng của dân đen, thóc của những ngườiĐang chết đói vì thực dân cướp chúng cướp phần vung xài huy hoắc,Phần chúng đem để mục nát trong kho!Ôi, đau thương, chưa từng thấy bao giờ…Trong lịch sử chưa bao giờ từng có!Hai triệu người, vì thực dân, lìa bỏNước thân yêu, oan uổng chết đau thương,Trong lúc đầy đồng bát ngát, ở quê hương,Lúa mơn mởn đang ra đòng trổ trái,Lúa trĩu hạt vàng tươi sai gấp bội,Ngạt ngào thơm báo hiệu ấm no người đi không về nữa, than ôi!Lúa chín gục, chẳng còn ai gặt hái!… Ta nhớ mãi cái thời kỳ đen tối!Quên làm sao tội lỗi kẻ xâm lăng!Quên làm sao mối thù hận khôn cùng!Quên sao được hai triệu người chết đói!Năm Ất Dậu tháng ba, còn nhớ mãi,Giống Lạc Hồng cực trải lắm đau thương!Những thây ma thất thểu đầy ngã gục không đứng lên vì… đói!Đói từ Bắc Giang đói về Hà Nội,Đói ở Thái Bình đói tới Gia Lâm!… Bên cạnh Thơ Về Nạn Đói 1945, Tặng Bạn ❤️️ Bài Thơ Về Đất Nước Việt Nam ❤️️Những Bài Ca Ngợi Tổ Quốc Hay Các Bài Thơ Về Nạn Đói 1945 Tuyển tập những bài thơ nói về nạn đói 1945 ý nghĩa nhất. Đa nhim, nhớ lại một tứ thơ mười lăm năm trước Tác giả Trần Xuân An Ngồi trước trang sách mởbóng điện tròn sáng soinghe trĩu đau vầng tránnghẹn đặc giọt mồ hôi giọt mồ hôi cúi mặt trồng đaybỏng kiếp tôi đòitrên đồng lúa ngậm đòngphải cắn răng nhổ bỏ! chữ học trò giấy vởbóng đèn chao nét ngờingước lên nhìn giọt lệtự thuở nào, sắp rơi giọt lệ rơi từ hốc mắt hờn căm ngút trờihai triệu rưởi người quắt queo chết đói! sổ tay thơ buốt nhóimáu ứa ra chảy ròngnhư mồ hôi nước mắtbóng điện rực rỡ hồng giọt máu hồng nhoà ngực lạnh mưa đôngvẫn nắm chặt tầm vông lao vào đồn giặc! đâu chỉ là nước mắtchuyện tình xưa, đa nhim!bóng điện treo từng giọtlương tâm không im lìm thắp màu nắng nghìn xưabao dung nhân hậu ấm buồng timđể Hi-rô-shi-ma, Na-ga-sa-kicũng đêm đêm rưng rưnggiọt nắng! Nghi thức nhặt cơm rơi của bà mẹ quêTác giả Trần Xuân An Quý hạt ngọc trời, thói quen từ béchao vào muỗng canh những hạt cơm rơiđưa lên miệng, kính cẩn lời niệm khẽchưa từng nhạt phai, dù tuổi tám mươi Ất Dậu, bốn lăm, niềm đau trận đóicha lén ăn, để chết lịm con thơquá tủi thẹn, đã tự mình treo cổ!suốt đời bà, chưa khuây quên bao giờ chuyện quê buồn, tôi nghe từ tuổi nhỏngười thành ma đói, ngập chợ đầy đườngmột cơ khổ giữa trùng trùng cơ khổnăm năm giặc Nhật, mấy triệu đau thương trở mặt Đông Du, mị lừa Đại Áxót đau, biết trước, còn bịp ai đây!nay tóc bà vẫn trắng mây nhân hậulỡ cơm rơi, nhặt lại, dẫu đủ đầy nỗi mất nước khắc sâu vào số phậntiếc ngọc trời thành nghi thức nguyện cầuHiro, Naga cũng hằng tưởng niệmvới tiếng bẻ gươm? vỗ cánh bồ câu. Giời làm chết đói tháng baTác giả chưa rõ Giời làm chết đói tháng baNgười thì bán cửa bán nhà để ănNgười thì bán áo bán khănBán đi cho sạch, cốt ăn sống ngườiNgười thì bán mâm bán nồiNgười thì bán cả đồ chơi trong nhàNgười thì bán đất bán nhàNgười thì bán cả mâm xà bát hươngNgười thì bán sập bán giườngCó người bán chĩnh làm tương độ chầyGiời ơi đất hỡi có hay? Đói! Đói!Tác giả Tố Hữu Lúa mùa mất sạch mọi nơiGiặc còn vơ vét hết nồi đến thăng!Đói xo khắp xóm khắp làngRau dưa chết giá, ngô lang xạc xờBuồn trông đồng trắng bãi khôLúa chiêm thôi hết ước mơ đầy nồi!Một quan gạo sáu lon thôiKhông tiền mua cám mà nuôi mẹ giàCháu thơ đói lả ôm bàCon đeo chân bố khóc la đêm ngày! Bà con ơi, tính sao đây?Bã nâu thính trấu nhét đầy bụng sao?Ăn xin, xin chẳng có nàoNằm lăn mà khóc, mà gào ai thương?Há đành chết lặng trên giườngHá đành gục xuống bên đường chết queo?Dậy đi, hỡi bạn đói nghèoTay cầm thúng mủng, lưng đèo cháu conSợ chi doạ nạt roi đònRủ nhau ta tới công môn ta đòiPhát cho ta gạo ngô khoaiCứu dân đi hỡi các ngài mặt mo!Lúa ta chất ứ đầy khoDành cho ai hưởng, chẳng cho ta dùng?Phát ngay cho kẻ bần cùngMẹ cha, con cháu, vợ chồng ta ăn!Bà con ơi, chớ tần ngầnCứu đời ta sống, phải cần tay ta!Tiến lên hăng nữa, đừng thaCầm dao, cầm súng xông ra phen nầy!Đánh cho giặc Nhật tan thâyVằm cho nát mặt cả bầy Việt gianDiệt trừ phát-xít dã manViệt Nam độc lập hoàn toàn tự doĐời dân ta mới ấm no! Chia Sẽ ❤️️ Thơ Về Quê Hương Đất Nước Hay ❤️️65+ Bài Thơ Về Tổ Quốc
Giới thiệu sách Nạn Đói Năm 1945 Ở Việt NamNhững tác phẩm văn học như truyện “Vợ nhặt” của Kim Lân, “Một bữa no” của Nam Cao hay “Chuyện cũ Hà Nội” của Tô Hoài, hoặc tác phẩm thơ như “Bếp lửa” của Bằng Việt, đều lồng vào trong đó câu chuyện về nạn đói cuối năm 1944 đầu xuân 1945, nạn đói khủng khiếp nhất trong lịch sử khi đã khiến hơn 2 triệu đồng bào thiệt mạng. Nhưng, ở góc độ khảo cứu từ những chuyên gia có chuyên môn, nạn đói này còn những ẩn khuất nào mà chúng ta chưa được biết? Cuốn sách “Nạn đói năm 1945 ở Việt Nam” sẽ cho ta một cái nhìn toàn cảnh về một giai đoạn đau thương của dân tộc Việt Nam mình. Họ đi thành rặng dài bất tuyệt gồm cả gia đình, già lão có, trẻ con có, đàn ông có, đàn bà có, người nào người ấy rúm người dưới sự nghèo khổ, toàn thân lõa lỗ, gầy guộc giơ xương ra run rẩy, ngay cả đến những thiếu nữ đã đến tuổi dậy thì, đáng lẽ hết sức e thẹn cũng thế. Thỉnh thoảng họ dừng lại để vuốt mắt cho một người trong bọn họ đã ngã và không bao giờ dậy được nữa, hay để lột miếng giẻ rách không biết gọi là gì cho đúng hãy còn che thân người đó...". - Thư của Vespy tháng 4/1945 NHỮNG CHỨNG TÍCH LỊCH SỬ Cuối năm 1944, đầu năm 1945, Thế chiến II dần đi đến hồi kết với chuỗi thất bại liên tiếp của Phe Trục Đức, Italia, Nhật Bản. Ở mặt trận Đông Nam Á, Phát xít Nhật với tham vọng điên cuồng dần hất cẳng thực dân Pháp ra khỏi Đông Dương và tăng cường vơ vét, bóc lột nhân dân ta nhằm phục vụ cho mưu đồ chiến tranh của chúng. Những chính sách bóc lột vô cùng tàn bạo của Nhật, cộng với mất mùa, dẫn đến nạn đói được coi là tàn khốc nhất trong lịch sử Việt Nam, khiến cho hơn 2 triệu người Việt chết đói và hậu quả vẫn còn ảnh hưởng cho tới tận ngày nay. NGUYÊN NHÂN VÀ HẬU QUẢ Các cường quốc đang chiếm đóng Việt Nam như Pháp, Nhật Bản vì mục đích phục vụ chiến tranh đã lạm dụng và khai thác quá sức vào nông nghiệp vốn đã lạc hậu, đói kém gây nhiều tai họa ảnh hưởng đến sinh hoạt kinh tế của người Việt. Trong khi Nhật thu gom gạo để chở về nước thì Pháp dự trữ lương thực phòng khi quân Đồng minh chưa tới, phải đánh Nhật hoặc dùng cho cuộc tái xâm lược Việt Nam. Những biến động quân sự và chính trị dồn dập xảy ra đã ảnh hưởng tiêu cực đến sản xuất lương thực miền Bắc vốn dĩ đã thiếu gạo nên càng bị đói. Nguyên nhân gián tiếp là những biện pháp quân sự hóa kinh tế nhằm phục vụ nhu cầu chiến tranh của chế độ thực dânPháp tại Việt Nam, do tại nước Pháp khi đó đang có chiến tranh và cũng đang bị xâm chiếm. Sau đó Nhật Bản dùng vũ lực loại bỏ Pháp chiếm đóng Việt Nam rồi thực hiện các biện pháp khác khốc liệt hơn nhằm mục đích khai thác phục vụ chiến tranh bắt nông dân nhổ lúa trồng đay để giải quyết nạn khan hiếm vải, buộc người dân bán lúa gạo với giá rẻ mạt để chuyển về Nhật. Không có số liệu chính xác về số người đã chết đói trong nạn đói này, một số nguồn khác nhau ước tính là từ khoảng đến 2 triệu người đã bị chết đói tại miền bắc Việt Nam. Đây là tỷ lệ chết đói rất cao, vì dân số toàn Việt Nam năm 1945 chỉ khoảng 23 triệu, trong đó khoảng 9 triệu sinh sống ở các tỉnh xảy ra nạn đói. NHỮNG CÂU CHUYỆN XÚC ĐỘNG "Số nạn nhân của nạn đói ở thôn Lương Phú, xã Tây Lương, mà những người còn may mắn sống sót đã cho là tới hơn 40% tổng số dân của thôn, tương đương với mức thiệt hại đã xảy ra ở vùng Hachinohe miền Bắc Nhật Bản, nơi gánh chịu những thiệt hại nặng nề nhất trong suốt nạn đói lớn nhất ở Tenmei ở thời kỳ Edo." - Giáo sư Furuta Motoo “Ông bố dẫn cậu con trai đi Hà Nội, nghe nói vào làng Tám rồi sau chết ở đâu không rõ. Hai mẹ con sang nhà ông ngoại cậy nhờ, nhưng người con gái vẫn không thoát chết. Vì bị đói, suy dinh dưỡng, bụng to trướng rồi chết. Thế là chỉ có bà vợ của ông qua khỏi. Gia đình cụ Hoàng Văn Duẩn có 5 nhân khẩu chỉ đi làm thuê, mò cua bắt ốc, chết đói cả nhà, gia đình người em là Hoàng Riếc, chồng đi đánh dậm, vợ mò cua, cả nhà có 5 nhân khẩu cũng chết cả nhà. Hai anh em nhà này là người chết đầu tiên ở địa phương..." - Ông Nguyễn Văn Thâu 64 tuổi xóm Nam Thọ, thôn Hiên, xã Tây Lương. Cuốn sách Nạn Đói Năm 1945 Ở Việt Nam có gì? Nhằm cung cấp cho bạn đọc một cách toàn diện, đầy đủ và có hệ thống những chứng tích về sự mất mát, đau thương mà nhân dân Việt Nam phải gánh chịu trong lịch sử trước tội ác của phát xít Nhật, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia - Sự thật kết hợp cùng Omega+ xuất bản cuốn sách Nạn đói năm 1945 ở Việt Nam - Những chứng tích lịch sử, dựa trên những tài liệu được khảo cứu công phu, khảo sát trực tiếp các địa điểm xảy ra nạn đói, phỏng vấn những chứng nhân lịch sử, cuốn sách đã dựng lại khá toàn diện bức tranh về nạn đói năm 1945 ở Việt Nam. Nhận xét về cuốn sách Nạn Đói Năm 1945 Ở Việt Nam “Kết quả của công trình đã làm sáng rõ về số lượng hơn 2 triệu người chết đói; về thảm họa chết đói; về nguyên nhân sinh ra nạn đói năm 1945 và hậu quả nghiêm trọng của nó. Công trình Nạn đói năm 1945 ở Việt Nam - Những chứng tích lịch sử đã chứng minh một cách chắc chắn rằng Nguyên nhân sinh ra nạn đói ở Việt Nam năm 1945 là do chính sách vơ vét, bóc lột tàn bạo của phát xít Nhật đối với nhân dân Việt Nam.” - Viện trưởng Viện Sử học, Đinh Quang HảiThông tin tác giả GS. Văn Tạo, GS. Furuta MotooGS. Văn Tạo, GS. Furuta MotooGS. Văn Tạo là Viện trưởng Viện Sử học Việt Nam từ năm 1980 đến năm 1989. Trong hơn nửa thế kỷ làm công tác nghiên cứu lịch sử, ông đã để lại một sự nghiệp khoa học khá đồ sộ với gần 100 cuốn sách do ông biên soạn, chủ biên hay tham gia biên soạn, hơn, 200 bài viết công bố trên nhiều tạp chí, trong các hội thảo khoa học trong nước và quốc tế. GS. Furuta Motoo là Viện trưởng Viện Cao học Văn hóa tổng hợp kiêm Hiệu trưởng Trường Đại cương, Đại học Tokyo; Phó Giám đốc Thường trực Đại học Tokyo; Giám đốc Thư viện, Đại học Tokyo; Phó Chủ tịch Hội Hữu nghị Nhật - Việt; Chủ tịch Hội Nhật Bản nghiên cứu Đông Nam Á; hiện ông là Hiệu trưởng Trường Đại học Việt - Nhật, Đại học Quốc gia Hà Nội. Các giải thưởng mà ông nhận được gồm Huy chương Hữu nghị năm 1980; Giải thưởng Nhà nước về khoa học công nghệ năm 2012; Huân chương Hữu nghị năm 2013Sách Nạn Đói Năm 1945 Ở Việt Nam của tác giả GS. Văn Tạo, GS. Furuta Motoo, có bán tại Nhà sách online NetaBooks với ưu đãi Bao sách miễn phí và Gian hàng NetaBooks tại Tiki với ưu đãi Bao sách miễn phí và tặng Bookmark
Nỗi kinh hoàng của một sự kiện lịch sử đau thươngNạn đói năm 1945 đã từng được ví là “sự hủy diệt khủng khiếp” trong lịch sử vốn đã quá nhiều đau thương, mất mát của dân tộc Việt Nam. 70 năm đã trôi qua, nhưng những nỗi đau để lại từ “sự hủy diệt khủng khiếp” ấy dường như vẫn còn đó, khôn tịch Hồ Chí Minh đã từng so sánh nạn đói năm 1945 ở Việt Nam với tổn thất của cuộc chiến tranh Pháp- Đức, Người viết “Nạn đói kém nguy hiểm hơn nạn chiến tranh. Thí dụ, trong 6 năm chiến tranh, nước Pháp chỉ chết 1 triệu người, nước Đức chỉ chết chừng 3 triệu người. Thế mà, nạn đói nửa năm ở Bắc Bộ ta đã chết hơn 2 triệu người…” Trích Hồ Chủ Tịch hô hào chống nạn đói năm 1945.Trong 6 tháng, số người chết vì đói ở Việt Nam lớn hơn cả số người chết vì chiến tranh ở Pháp trong 6 đói năm 1945 đã diễn ra vô cùng khốc liệt Ảnh của cố nghệ sĩ nhiếp ảnh Võ An NinhCho đến nay, nhiều tài liệu đã khẳng định, số người chết trong nạn đói kinh hoàng năm 1945 nhiều hơn con số 2 triệu, nhưng rất khó để có được số thống kê cụ đói năm 1945 diễn ra từ cuối năm 1944 đến tháng 5 năm 1945 với “địa bàn” chính từ tỉnh Quảng Trị trở ra Bắc Bộ với “đỉnh điểm” là tỉnh Thái Bình. Theo con số ghi chép từ cuốn sách “Nạn đói năm 1945 ở Việt Nam- những chứng tích lịch sử” của GS. Văn Tạo và GS. Furuta Moto, ở xã Tây Lương thuộc Tiền Hải- Thái Bình nơi nạn đói diễn ra kinh khủng nhất, 66,66 % số dân của xã chết đói, trong đó rất nhiều gia đình chết cả nhà, nhiều dòng họ chết cả Bình- nơi diễn ra nạn đói thảm khốc nhấtTừ tháng 1/1945 đến tháng 5/1945, xác người chết nằm ngổn ngang từ Quảng Trị đến khắp các tỉnh miền Bắc. Ở đâu người ta cũng nhìn thấy xác người chết đói. Trong 70 năm qua, những hố chôn người tập thể vẫn là nỗi đau đớn, ám ảnh khôn nguôi của biết bao thế hệ. Trong ký ức của nhiều người vẫn còn giữ lại hình ảnh những chiếc xe bò chở xác người trên những phố Hà Nội buổi sáng sớm, hình ảnh người nằm chết la liệt ở khắp các con đường, hình ảnh những người kiệt sức, còng queo xếp hàng dài nối nhau đi xin ăn…Xác người ở khắp nơi... Ảnh Võ An NinhNói về tính tàn khốc của nạn đói, cuốn “Nạn đói năm 1945 ở Việt Nam- những chứng tích lịch sử” viết, “Nạn đói vô cùng khủng khiếp. Nó kéo dài cái chết khiến nạn nhân bị các cơn đói dày vò, đau khổ, tủi nhục. Nhìn thấy người thân chết mà không cứu được, biết đến lượt mình rồi sẽ chết mà không thoát được. Muốn tìm cái sống đã phải dứt bỏ nhà cửa, quê hương, mồ mả tổ tiên ra đi, mong sao được cứu sống, nhưng rồi lại chết gục ở đầu đường xó chợ…”.Cuốn sách “Nạn đói năm 1945 ở Việt Nam- những chứng tích lịch sử” còn miêu tả hình ảnh những trẻ em nhay vú mẹ đã chết, người đi lĩnh chẩn bế đứa con trên tay nhưng con đã chết…Cuốn sách viết, “Nạn đói đã chôn vùi nhân phẩm con người. Nạn đói diễn ra vô cùng thảm khốc. Hàng nghìn hộ chết cả nhà, nhiều dòng họ chết cả họ, hàng chục xóm làng chết cả xóm, cả làng”.Tội ác chiến tranhThu gom xác người trên phố Ảnh Võ An NinhTrong tác phẩm “Chuyện cũ Hà Nội” của nhà văn Tô Hoài, ông từng viết, “Nói bao nhiêu về cảnh đói 1944-1945 cũng vẫn chưa thấm. Chữ nghĩa tôi run rẩy, thổi bay được. Khủng khiếp quá”.… “Sau đảo chính mùng chín tháng Ba, lính Nhật đi đẩy người đói không xuể. Người ngồi, người chết la liệt các vỉa hè. Suốt ngày suốt đêm kéo xác chết lầm lũi qua”- Tô Hoài đói cơ cực, đau thương của nạn đói năm 1945 cũng từng được miêu tả trong tác phẩm văn học nổi tiếng “Vợ nhặt” của nhà văn Kim Lân.… “Cái đói đã tràn đến xóm này tự lúc nào. Những gia đình từ những vùng Nam Định, Thái Bình, đội chiếu lũ lượt bồng bế, dắt díu nhau lên xanh xám như những bóng ma, và nằm ngổn ngang khắp lều chợ. Người chết như ngả rạ. Không buổi sáng nào người trong làng đi chợ, đi làm đồng không gặp ba bốn cái thây nằm còng queo bên đường. Không khí vẩn lên mùi ẩm thối của rác rưởi và mùi gây của xác người…” Trích “Vợ nhặt”.Ảnh tư liệuNguyên nhân của nạn đói kinh hoàng năm 1945 ở Việt Nam được cuốn sách “Nạn đói năm 1945 ở Việt Nam- những chứng tích lịch sử” phân tích rất đó, Nhật thu gom lúa gạo, Pháp dự trữ lương thực phục vụ cho chiến tranh, trong khi thiên tai, lũ lụt, sâu bệnh gây mất mùa tại miền Bắc. Bệnh dịch tả lây lan nhanh và rộng khắp trong mùa lũ. Không dừng lại ở đó, Nhật còn bắt nhân dân ta phá lúa, hoa màu để trồng cây đay. Những biến động quân sự và chính trị dồn dập xảy ra đã ảnh hưởng tiêu cực đến sản xuất lương thực miền Bắc vốn dĩ đã thiếu gạo nên càng bị đói.Còn nữaCuốn “Nạn đói năm 1945 ở Việt Nam- những chứng tích lịch sử” của GS. Nguyễn Văn Tạo và GS. Furuta Moto công bố năm 1995, đến nay đã 20 năm trôi qua, cuốn sách được xem là tư liệu quý giá về sự kiện lịch sử Nạn đói năm 1945 ở Việt Nam.“Nạn đói năm 1945 ở Việt Nam- những chứng tích lịch sử” là công trình khoa học công phu với nhiều tư liệu quý. Để tiến hành nghiên cứu, biên soạn công trình này, các tác giả đã phải dày công sưu tập, khai thác tư liệu từ nhiều nguồn khác nhau tư liệu thành văn, tư liệu điều tra và khảo sát thực địa trên 23 điểm thuộc 21 tỉnh, thành từ Quảng Trị trở HươngBài viết có sử dụng thông tin, tài liệu từ cuốn sách “Nạn đói năm 1945 ở Việt Nam- những chứng tích lịch sử” của GS. Văn Tạo và GS. Furuta Moto
Những bài ca dao - tục ngữ về "Nạn đói năm Ất Dậu" Tàu cười, Tây khóc, Nhật lo Tàu cười, Tây khóc, Nhật lo, Việt Nam hết gạo chết co đầy đường Dị bản Tàu cười, Tây khóc, Nhật lo, Việt Nam độc lập chết co đầy đường Khách cười, Tây khóc, Nhật no Việt Nam độc lập nằm co chết đường Đất này đất tổ đất tiên Đất này đất tổ đất tiên Đất này chồng vợ bỏ tiền ra mua Bây giờ Nhật, Pháp kéo hùa Chiếm trồng đay lạc, ức chưa hỡi trời Chém cha lũ Nhật côn đồ Chém cha lũ Nhật côn đồ Bắt người cướp của tha hồ thẳng tay Dân ta trăm đắng ngàn cay Thức ăn chẳng có trồng đay cho người Giời làm chết đói tháng ba Giời làm chết đói tháng ba Người thì bán cửa bán nhà để ăn Người thì bán áo bán khăn Bán đi cho sạch, cốt ăn sống người Người thì bán mâm bán nồi Người thì bán cả đồ chơi trong nhà Người thì bán đất bán nhà Người thì bán cả mâm xà bát hương Người thì bán sập bán giường Có người bán chĩnh làm tương độ chầy Giời ơi đất hỡi có hay? Được mùa chớ phụ ngô khoai Được mùa chớ phụ ngô khoai Đến khi thất bát lấy ai bạn cùng Dị bản Được mùa chớ phụ môn khoai Đến năm Thân, Dậu lấy ai bạn cùng Nạn đói năm Ất Dậu Một nạn đói xảy ra tại miền Bắc trong khoảng từ tháng 10 năm 1944 Giáp Thân đến tháng 5 năm 1945 Ất Dậu làm khoảng từ đến hai triệu người dân chết đói. Nguyên nhân trực tiếp là những hậu quả của chiến tranh tại Đông Dương Các cường quốc liên quan như Pháp, Nhật Bản và cả Hoa Kỳ đã can thiệp vào Việt Nam và gây nhiều tai họa ảnh hưởng đến sinh hoạt kinh tế của người Việt. Những biến động quân sự và chính trị dồn dập xảy ra khiến miền Bắc vốn dĩ đã thiếu gạo nên càng bị đói. Ngoài ra còn có nguyên nhân tự nhiên lũ lụt, thiên tai, bệnh dịch tả.... Người chết vì đói năm Ất Dậu Chú khách Một cách gọi người Hoa sống ở Việt Nam. Từ này bắt nguồn từ chữ "khách trú," cũng gọi trại thành cắc chú. Đay Một loại cây thuộc họ bông gòn, chiều cao từ 2 - 5 m, vỏ cây dùng để làm sợi. Trong Chiến tranh Đông Dương, Pháp và Nhật đã bắt dân ta "nhổ lúa trồng đay" nhằm phục vụ chiến tranh sản xuất quân trang, quân phục, làm sản lượng lương thực bị giảm mạnh, góp phần gây nên nạn đói năm Ất Dậu ở miền Bắc. Cây đay Tháng ba và tháng bảy, tháng tám là hai thời kì giáp hạt trong năm. Mâm xà Loại mâm thờ chân cao, không có nắp. Bình hương Loại lọ bằng gỗ, sành hoặc sứ, thường có hoa văn, để cắm và thắp nhang trên bàn thờ hoặc những chỗ thờ cúng khác. Tùy theo hình dạng mà bình hương cũng gọi là bát hương hoặc nồi hương. Bát hương và cặp lọ trang trí Sập Loại giường không có chân riêng, nhưng các mặt chung quanh đều có diềm thường được chạm trổ. Sập thường được làm bằng gỗ quý, thời xưa chỉ nhà giàu mới có. Cái sập Chĩnh Đồ đựng bằng sành hoặc đất nung, miệng hơi thu lại, đáy thót, nhỏ hơn chum. Xem thêm Cái chum Độ chầy Lần hồi qua ngày. Như độ nhật. Khoai môn Tên một số giống khoai gặp nhiều ở nước ta, cho củ có nhiều tinh bột, ăn được. Có nhiều giống khoai môn như môn xanh, môn trắng, môn tím, môn tía, môn bạc hà, môn sáp, môn sen, môn thơm, môn trốn... mỗi loại có những công dụng khác nhau như nấu canh, nấu chè... Trước đây môn, sắn, khoai, ngô... thường được ăn độn với cơm để tiết kiệm gạo. Cây và củ khoai môn
thơ về nạn đói 1945