Thái độ: HS nhận ra được vẻ đẹp trên đồ vật thêm yêu quý và có ý thức giữ gìn đồ vật, yêu thích môn học. II/- Chuẩn bị của GV - HS: 1/ Đồ dùng dạy học: GV mẫu vẽ, một vài bài vẽ tĩnh vật đơn giản. Hình minh hoạ các bước tiến hành. HS: Giấy A4, bút chì, tẩy .
Phật giáo 218-250 năm, đức hoàng đế A-dục (Asoka) trục xuất bọn ngoại đạo và ngài rất thành tín bảo tồn Phật Pháp được hưng thạnh đến cực điểm, hơn các thời kỳ. Đến năm 620, đức vua Kaniska cho thợ tạo tượng Phật bằng đá rất nhiều, và phái người đem truyền
Sư lại về tháp Báo Thiên ở kinh đô đúc một cái đỉnh. Cái đại hồng chung thì đúc ở Phả Lại và cái vạc lớn ở Minh Đảnh. Xong 4 vật như ý nguyện, số đồng còn thừa sư đem về chùa làng mình đúc một quả chuông nặng hơn 3000 cân và một quả chuông cũng năng 3000 cân
Bả trạo với hình thức hát gọi là hát bả trạo hay chèo/hò đưa linh đã gắn liền với đời sống tín ngưỡng của cư dân người Việt duyên hải miền Trung từ khi có sự giao thoa văn hóa Việt - Chăm ngay sau quá trình khai phá đất đai. Những lưu dân người Việt đã đến và ổn định cuộc sống tại vùng đất
Xe 2t , 2h xe từ long xuyên về sài gòn ai có hàng gì gữi kiếm tiền dầu thôi ạ liên hệ Lộ trình: An Giang -> Hồ Chí Minh Hội/ Nhóm : Xe tải tiện chuyến
Tháp Bà Ponagar thuộc phường Vĩnh Phước, thành phố Nha Trang, là một quần thể kiến trúc lớn và được phân bố trên 3 mặt bằng: Tháp Cổng, Mandapa và khu đền tháp. Do biến động của lịch sử, hiện nay khu di tích còn lại 5 công trình kiến trúc ở hai mặt bằng: Gồm Mandapa
pAcoHHQ. Chùa Vĩnh Tràng là ngôi chùa thờ phật lớn nhất tỉnh Tiền Giang, được xếp hạng di tích lịch sử – văn hóa cấp quốc gia năm 1984. Chùa bắt đầu được xây dựng từ đầu thế kỉ 19 bởi ông bà Bùi Công Đạt. Năm 1894, Hòa thượng Thích Huệ Đăng ở chùa Giác Lâm Gia Định về trụ trì đã tổ chức xây dựng thành ngôi đại tự và đặt tên là chùa Vĩnh Trường với ngụ ý ước cho chùa được “Vĩnh cửu đối sơn hà, trường tồn tề thiên địa”. Chính vì vậy, người dân vùng lân cận đến nay vẫn quen gọi là chùa Vĩnh Tràng. Năm 1907, Hòa thượng Trà Chánh Hậu cho sửa chữa phần chánh điện, pha trộn cả nét kiến trúc Á – Âu. Năm 1930, Hòa thượng Minh Đằng cho trùng tu toàn diện để chùa có diện mạo như ngày hôm ngôi chùa có lối kiến trúc độc đáo nhất Nam bộ, điểm nhấn của chùa Vĩnh Tràng là cổng tam quan với nghệ thuật ghép mảnh sành, sứ. Từ màu sắc của các loại sành sứ, những nghệ nhân xưa đã khéo léo xếp đặt thành nhiều bức tranh minh họa sự tích nhà Phật, truyện tích dân gian, đề tài tứ linh, tứ quý, hoa lá, mây trời… với sự hòa sắc tuyệt vời như tranh vẽ. Các bức thủ quyển mềm mại ghi những câu Phật hiệu bằng nét chữ điêu luyện Trấn tịnh sơn môn, Quảng đại nguyện môn, Tịnh độ huyền môn…Gồm có bốn hạng mục nối tiếp nhau tiền đường, chánh điện, nhà tổ, nhà hậu, ngôi chùa có diện tích dài 70m, rộng 20m, xây bằng xi măng và gỗ quý, nền đúc cao 1m, xung quanh xây tường vững chắc. Riêng mặt trước của tiền đường thì được xây dựng theo lối kiến trúc hài hòa Âu – Á với những hàng cột thanh mảnh, vòm cong và hoa văn nhiều màu sắc. Đi vào bên trong ta sẽ thấy một màu vàng óng ánh được thếp trên các hình chạm, trên các tượng phật. Đáng chú ý hơn cả là những đôi long trụ trong ngôi chính điện, đó là những cây cột tròn to, bằng gỗ quý kiến trúc theo kiểu “thượng thu hạ cách”.Nhìn từ xa du khách sẽ có cảm tưởng chùa như một ngôi nhà mang phong cách kiến trúc Châu Âu với những hàng cột thanh mảnh vòm cong, với bộ phù điêu bát tiên cưỡi thú cùng hoa văn thời phục hưng, vòm cửa kiểu La Mã, bông sắt của Pháp, gạch men của Nhật. Bên trong chánh điện và nhà tổ lại mang đậm nét kiến trúc Việt Nam, các hoành phi, tượng gỗ được chạm khắc rất khéo léo và tinh xảo với những hình ảnh vui tươi và sống gian bên trong chùa là nơi tập trung nhiều tác phẩm mỹ thuật của các thế hệ nghệ nhân khắp ba miền Bắc, Trung, Nam. Chẳng hạn như giữa lòng cột cái là bộ bao lam bát tiên kỵ thú. Tác phẩm này ra đời vào khoảng năm 1907 – 1908 do những nghệ nhân tại địa phương thực hiện. So với các bộ bao lam xung quanh, bộ này có niên đại sớm hơn, nhưng đạt trình độ mỹ thuật cao hơn. Đây là một bức phù điêu hiếm có của những năm đầu thế kỷ 20, chứng tỏ nghệ thuật tạo hình ở Nam bộ phát triển khá sớm. Bốn cột cái của chùa Vĩnh Tràng đều treo long trụ. Đôi phía ngoài chạm tứ linh do bà Lê Thị Ngởi ở Ba Tri Bến Tre hiến cúng vào năm 1909. Nét đặc biệt là đôi long trụ này có lối sắp xếp bố cục độc đáo có một không hai chạm chim phượng đứng trên đầu rồng. Có thể nói toàn bộ cái đẹp của chùa Vĩnh Tràng đều tập trung vào nghệ thuật tạo hình, trong đó phần tượng chiếm đa biệt, tại chùa còn có Bộ tượng mười tám vị La Hán không thua kém về mặt nghệ thuật so với tượng các vị La Hán chùa Tây Phương. 18 bức tượng này nằm ở hai bên tường chánh điện, được tạc từ gỗ mít, mỗi tượng cao khoảng 0,8m, bề ngang gối là 0,58m. Các vị La Hán đều cưỡi thú, trên tay cầm bửu bối. Lối đặc tả của nhóm tượng này cũng mang dáng dấp riêng, rất Nam bộ, nhưng lại thành công trong việc mô tả cảm xúc đặc trưng của từng vị La Hán, chứng tỏ ngoài tay nghề, tác giả còn khá am tường giáo lý nhà Phật. Nhà nghiên cứu Trương Ngọc Tường xác định những pho tượng đẹp nhất của chùa này là do thầy trò nghệ nhân Tài Công Nguyên thực hiện khoảng đầu thế kỷ 20. To nhất là tượng Di Đà do ông Tống Hữu Trung ở Vĩnh Long hiến cúng. Ngoài ra còn có tượng Hộ Pháp khuyến thiện trừng ác… Tất cả thể hiện đỉnh cao của nghệ thuật tạc tượng tròn khu vực đồng bằng sông Cửu quanh chùa là những vườn cây cảnh trồng nhiều loại hoa thơm cỏ lạ, những hồ nước thơm ngát hương sen và những cây cổ thụ che trùm bóng mát, tạo nên sự hài hòa tuyệt vời giữa khung cảnh thiên nhiên với không gian kiến trúc, khiến chùa thêm cổ kính, thâm nghiêm. Nổi bật giữa hoa viên là pho tượng phật Di Đà cao 24m bệ 6m, tượng 18m. Tượng màu trắng, diễn tả Phật đang đứng trông nom chúng sinh các cõi. Tượng Phật được nhiều người địa phương cho là biểu tượng của ngôi chùa hiện trung tâm thành phố Hồ Chí Minh khoảng 80km, Vĩnh Tràng được xem là ngôi chùa cổ danh tiếng và là một công trình kiến trúc đặc sắc. Có thể nói rằng vẻ đẹp của chùa tập trung ở nghệ thuật tạo hình và cũng chính là sự phản ánh lịch sử mỹ thuật của mảnh đất Tiền Giang. Ngày nay, chùa đã trở thành điểm du lịch không thể bỏ qua của những du khách trong nước cũng như nước ngoài khi có dịp đến tham quan thành phố Mỹ Tho. Hơn thế nữa còn là nơi nghiên cứu tìm hiểu của nhiều người khi đến tham quan ngôi chùa ấn tượng này.
Người ta ví những hành trình tour du lịch Bạc Liêu đẹp như một giấc mơ về tình yêu, với phong cảnh xinh tươi, con người hiền hậu. Bạc Liêu cũng nổi tiếng với giai thoại Hắc-Bạch công tử đốt tiền nấu trứng. Nhưng ít ai biết được rằng, Bạc Liêu còn là nơi của nhiều kiến trúc cổ, trong đó phải kể đến Tháp cổ Vĩnh Hưng thuộc xã Vĩnh Hưng, Vĩnh Lợi, cách thị xã Bạc Liêu chừng 20km về phía Tây Bắc. Tháp cổ Vĩnh Hưng- một thời vàng son của văn hóa Óc EoTháp Vĩnh Hưng là điểm du lịch Bạc Liêu rất đáng để đến tham quan. Đây là di tích kiến trúc cổ của người Khmer Nam bộ, dấu vết của một khu dân cư đã tồn tại và phát triển ở vùng đất này từ nhiều thế kỉ trước. Trên tấm bia được tìm thấy trong ngôi chùa cạnh tháp được khắc bằng những dòng chữ Phạn có ghi rõ là vào thời Vua Yacovar-Man một vị vua Khmer, khoảng năm 892 sau Công nguyên. Tòa tháp cổ đã trải qua biết bao thăng trầm nhưng vẫn giữ được những nét kiến trúc cổ đặc trưng của con người ở vùng đất cổ Vĩnh Hưng có cấu trúc khá đơn giản, với bình diện hình chữ nhật, các lớp tường bao quanh dày, nóc tháo cao uốn thành vòm có một cửa quay về hướng Tây. Chiều cao của tháp chừng 8,2m, do một phần đỉnh đã hư hại, hai bên cạnh chân tháp rộng 5,6m và 6, gì đã làm nên một tháp cổ đã trải qua biết bao nhiêu thăng trầm, nắng gió của thời gian những vẫn vững chãi đến hiện tại? Đó là một kĩ thuật xây dựng đặc biệt của người Khmer cổ, toàn bộ tháp được xây dựng bằng gạch và gắn kết rất khít khao, hầu như không thấy được dấu vết của những kẻ vào bên trong tháp ta thấy một bàn tay của tượng thần bằng đồng, một phần thân dưới của tượng nữ thần bằng đá xanh, tượng nữ thần Brahma với mặt bằng đồng, đầu tượng Phật bằng đồng…và nhiều vật thờ cổ Vĩnh Hưng đã trải qua nhiều đợt khảo sát trong khu vực tháp. Các nhà khảo cổ đã phát hiện ra những mảnh gốm thuộc nền văn hóa Óc Eo, nhiều tượng đồng có giá trị. Gần đây nhất là đợt khai quật năm 2002, các nhà khảo cổ đã phát hiện ra nhiều tấm ngói còn nguyên vẹn hoa văn, nhiều tượng đồng đặc biệt quý hiếm, điểm đặc biệt là những phát hiện này chưa từng thấy ở đâu cũng như chưa có một sách nào nói về những tượng cổ nay, tháp cổ Vĩnh Hưng đã được tôn tạo, trùng tu cùng với xây dựng các phòng trưng bày các hiện vật khai quật được cũng như các tư liệu liên quan đến tháp cổ này. Chính điều này đã mang nhiều du khách đến với Vĩnh Hưng, tìm về tháp cổ để hiểu hơn về một thời vàng son của một nền văn hoá Óc Eo nổi tiếng. Công trình này đã được công nhận là di tích lịch sử cấp quốc gia năm 1992.
Hỏa biến hồn tôi mảnh sành cong Đứng trước ngôi đền tháp cổ, chúng tôi ngỡ như nó mới được ông Lunet de Lajonquiere, người Pháp phát hiện ra. Nghĩa là ngôi đền tháp vẫn đứng sừng sững mà "đơn côi" giữa màu xanh của cây, của lúa. Theo lời kể, hồi phát hiện ra ngôi đền này, cả khu vực quanh đây đều ngập nước, chỉ trên một gò đất nổi lên giữa mênh mông ấy là cây lá rậm rạp che khuất mọi vật. Nhà nghiên cứu người Pháp đã linh cảm rằng bên trong sự rậm rạp kia là một thứ gì đó rất đáng khám phá. Và thế là ông cùng đồng sự kiên trì vạch lá phát cây. Một ngôi đền được xây bằng gạch nung đã hiện ra. Ông đặt tên là tháp Trà Long. Đến năm 1917, một nhà nghiên cứu người Pháp khác tên là Henri Parmentier tiếp tục khảo sát và công bố kết quả trong tập san của Trường Viễn Đông Bác Cổ Pháp với tên gọi mới là tháp Lục Hiền. Tháp cổ Vĩnh Hưng hiện nay. Đỗ Lệnh Hùng Tú giải thích thêm cho chúng tôi sau khi tôi có ý thắc mắc vì sao ở vùng đồng bằng sông Cửu Long lại đã từng có và tồn tại một nền văn hóa cổ như vậy. Xưa kia vùng đồng bằng sông Cửu Long là vùng đất "Thủy Chân Lạp", có nghĩa là vùng đất ngập nước của nhà nước Chân Lạp. Ban đầu Chân Lạp là một nhà nước chư hầu của nhà nước Phù Nam ở phía Bắc, tức là vùng Nam Trung bộ hiện nay. Nhưng chỉ trong vòng 60 năm sau đó, nhà nước Chân Lạp này đã giành được độc lập và dần dần lấn lướt nhà nước Phù Nam. Đến thế kỷ 6 thì họ đã xâm chiếm Phù Nam. Cuối cùng, trong thế kỷ 7 nhà nước Chân Lạp đã xâm chiếm toàn bộ Phù Nam". Đỗ Lệnh Hùng Tú nói đến đấy thì dừng lại, ông nhìn vẻ mặt vẫn còn chưa nguôi thắc mắc của chúng tôi, rồi nói tiếp "Cái hay là nhà nước Chân Lạp tuy thôn tính nhà nước Phù Nam nhưng họ lại hấp thu nền văn hóa Phù Nam. Mà văn hóa Óc Eo là một nền văn hóa có nguồn gốc bản địa, chủ nhân của nó là những cư dân Phù Nam. Và văn hóa Phù Nam chịu ảnh hưởng tín ngưỡng Bà la môn truyền từ Ấn Độ tới". Bàn mài thuốc cổ. Tháp cổ Vĩnh Hưng được gọi như hiện nay bởi các nhà khoa học Việt Nam đã đặt tên theo địa danh mà ngôi đền tháp hiện hữu - xã Vĩnh Hưng A, thuộc huyện Vĩnh Lợi, tỉnh Bạc Liêu. Tháp cổ Vĩnh Hưng xưa kia có lẽ không đơn lẻ mà là cụm kiến trúc tín ngưỡng với nhiều tháp hoặc nhiều khối nhà, là nơi các tín đồ đạo Bà la môn thờ linh vật phồn thực theo tín ngưỡng của mình. Bên trong lòng tháp cổ Vĩnh Hưng chúng tôi được mục sở thị hai linh vật của tín ngưỡng đạo Bà la môn, đó là linh vật Linga sinh dục nam và linh vật Yoni sinh dục nữ. Đấy đều là hai linh vật có tính phồn thực mà người theo đạo Bà la môn rất tôn trọng. Dĩ nhiên khi tạc ra nó người xưa đã đạt tới độ nghệ thuật và gạt bỏ được sự dung tục. Chúng tôi sau khi đã quan sát thật kỹ bên trong, bên ngoài của Tháp cổ Vĩnh Hưng, dĩ nhiên cũng chụp kha khá các kiểu ảnh, thì được anh Đặng Văn Khoa, cán bộ Ban quản lý các khu di tích và danh thắng tỉnh Bạc Liêu, hiện là người trông coi kiêm thuyết minh viên di tích Tháp cổ Vĩnh Hưng mời vào tham quan nhà trưng bày hiện cổ vật tháp Vĩnh Hưng. Cũng như các ngôi đền tháp cổ khác, tháp cổ Vĩnh Hưng được xây dựng dạng gạch nung. Cho đến giờ giới khoa học vẫn chưa thể nói chắc chắn được rằng Tháp Vĩnh Hưng được xây dựng bằng gạch nung trước hay xây dựng xong mới nung? Tuy nhiên, dấu ấn kiến trúc cổ xưa bao giờ cũng là "bí mật lịch sử" để người đời sau phải "lao tâm khổ tứ" tìm lời giải thích. Anh Đặng Văn Khoa chỉ tay vào từng hiện vật khảo cổ đang được trưng bày trong Nhà trưng bày. Đây là một chiếc bàn mài thuốc bằng đá, nhìn thoáng biết ngay chiếc bàn mài thuốc này giống hệt những chiếc thuyền tán thuốc bắc bằng đồng của những thầy lang đông y. Anh Khoa cho biết thêm "Căn cứ vào bàn mài thuốc bằng đá này cho thấy từ rất lâu những cư dân cổ đã biết công dụng của cây lá thuốc và biết cách bào chế thuốc để chữa bệnh. Điều đó cũng cho thấy người xưa đã có kỹ năng, kỹ nghệ trong sản xuất ra những thứ thuốc có nguồn gốc từ chính mảnh đất họ sinh sống. Cổ vật trong nhà trưng bày. Ngoài công cụ bằng đá, các nhà khảo cổ cũng đã tìm thấy ở Tháp cổ Vĩnh Hưng nhiều vật dụng được làm bằng gốm. Điều này không có gì ngạc nhiên bởi người xưa đã biết cách nung gạch xây dựng tháp tinh vi đến nỗi chúng ta hiện nay vẫn lắc đầu thán phục. Chúng tôi đã được xem những chiếc bình đựng nước có vòi rót chẳng khác gì những chiếc ấm tích pha chè. Hẳn người xưa đã biết cách tích trữ nước sạch hoặc nước đun sôi để sử dụng hàng ngày. Bên cạnh đó là những chiếc hũ đáy tròn để đựng chứa nước, tất cả đều bằng gốm, chứng tỏ công nghệ sản xuất thủ công nghiệp với kỹ nghệ bàn xoay đã có ở vùng đất này từ rất sớm. Rồi còn những viên gạch dùng để trang trí trong xây dựng có hình giống chiếc lá đề. Những vật dụng trang trí khác như những đầu trụ bằng gốm. Ở một gian trưng bày khác chúng tôi đã thấy những dụng cụ lao động sản xuất, đặc biệt là đồ trang sức được chế tác từ đá quý. Mấy cô, mấy chị trong đoàn rất thích thú với món đồ trang sức đó. Nói vui chứ nếu được phép thì hẳn sẽ có cô nào, chị nào đó đeo thử để chụp ảnh đưa lên "phây" cho độc đáo. Sau khi thăm và tìm hiểu qua nhà trưng bày, trong chúng tôi nẩy ra mấy "tranh cãi", đó là niên đại của Tháp cổ Vĩnh Hưng và ai là người xây dựng nên ngôi đền tháp này? Nếu như khẳng định tháp cổ Vĩnh Hưng thuộc về nền Văn hóa Óc Eo thì "tuổi đời" của nó ước chừng trên ngàn năm bởi "Văn hóa Óc Eo là một nền văn hóa cổ hình thành và phát triển ở Nam bộ Việt Nam từ thế kỷ 1 đến thế kỷ 7 sau Công nguyên. Đây là một nền văn hóa lớn trong lịch sử Việt Nam, gắn liền với đất nước, con người ở vùng châu thổ hạ lưu sông Mê Kông, mà cụ thể là nhà nước Phù Nam và có quan hệ mật thiết với lịch sử Đông Nam Á cổ đại". Còn như căn cứ vào cổ vật khai quật được, thì tuổi đời của Tháp cổ Vĩnh Hưng chừng thế kỷ 9 và vẫn do người Phù Nam xây dựng. Nhưng nếu dựa vào phong cách kiến trúc cùng kỹ thuật xây dựng thì Tháp cổ Vĩnh Hưng na ná như những Tháp Chăm hiện hữu ở nam Trung bộ và do người Chăm thực hiện. Như vậy Tháp cổ Vĩnh Hưng được xây dựng cách đây khoảng từ thế kỷ 4 đến thế kỷ 6, bởi thời kỳ đó người Chăm với nhà nước Chăm Pa của mình do bị các nhà nước khác "dồn ép" nên người Chăm dịch dời về phương Nam. Họ người Chăm đã định cư ở vùng đất Tây Nam bộ hiện nay và dĩ nhiện họ đem theo tục thờ cúng tín ngưỡng của mình, cùng lối kiến trúc đền tháp của mình để xây dựng nên Tháp cổ Vĩnh Hưng? Còn anh Đặng Văn Khoa cho hay "Từ những hiện vật bằng đồng, bằng đá và bằng gốm được khai quật đã cho thấy một giai đoạn phát triển và phát triển khá dài kể từ khi nhà nước Chân Lạp thôn tính nhà nước Phù Nam trên vùng đất Tây Nam bộ hiện nay". Câu trả lời vẫn thuộc về phía các nhà khoa học. Năm 2011, di tích Tháp cổ Vĩnh Hưng được trùng tu lớn, những chỗ tường gạch bị bong tróc hay hỏng hóc đều đã được sửa chữa, hàn gắn gần như nguyên bản. Anh Khoa cho hay "Khi tiến hành trùng tu Tháp cổ Vĩnh Hưng, chúng tôi đã phải ra tận Ninh Thuận, Bình Thuận để "đặt hàng" bà con người Chăm. Bởi lẽ người Chăm rất tinh thông việc xây dựng tháp gạch nung. Gạch cũng như một số thứ bằng gốm khác đều được phục dựng từ chính những lò gốm Chăm, do người Chăm sản xuất và từ chính thứ đất "Chăm" đấy". Rồi anh Khoa chỉ tay lên tấm bằng công nhận là "Di tích kiến trúc nghệ thuật cấp quốc gia" cho Tháp cổ Vĩnh Hưng do Bộ Văn hoá - Thông tin nay là Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch cấp năm 1992.
Thuyết minh Hồi trống Cổ Thành Thuyết minh Hồi trống Cổ Thành là đưa những thông tin về tác giả, tác phẩm về nội dung cũng như những sự kiện diễn ra trong tác phẩm một cách cụ thể, chính xác theo góc nhìn khách quan, khoa học. Thuyết minh Hồi trống Cổ Thành nên hạn chế vận dụng các biện pháp so sánh liên tưởng nhằm đảm bảo tính xác thực cho tác phẩm, các thông tin và số liệu sử dụng phải có căn cứ, xác đáng. Thuyết minh Hồi trống cổ thành Mở bài thuyết minh Hồi trống Cổ Thành Hồi trống Cổ Thành thuộc hồi thứ 28 trích trong Tam Quốc diễn nghĩa của La Quán Trung. La Quán Trung sinh năm 1330 mất năm 1400, ông sinh ra và lớn lên trong khoảng cuối thời nhà Nguyên đầu thời nhà Minh. Ông là người có hiểu biết sâu rộng lại chịu tác động của tư tưởng nho giáo, thế nên tính cách của ông có phần rạch ròi, yêu ghét rõ ràng. Các sáng tác của ông thấm nhuần tư tưởng Nho giáo, với ông, tư tưởng trung quân ái quốc là điều tất yếu được xem trọng. Ông nhìn đời với một con mắt tinh tường và sâu sắc, chính bởi sự nhận thức đúng đắn về xã hội cũng như các vấn đề chính chính trị nhưng lại không thể tự mình thực hiện, vậy nên ông gửi gắm vào tác phẩm. Hôm nay chúng ta sẽ tìm hiểu kĩ càng hơn về đoạn trích mang tên Hồi trống Cổ Thành. Xem thêm Dàn ý phân tích Hồi trống Cổ Thành có gợi ý Phân tích hồi trống Cổ Thành chi tiết, hay nhất Thân bài Trước khi đến với nội dung đoạn trích, chúng ta cùng điểm qua vài nét về tác phẩm Tam Quốc diễn nghĩa. Tác phẩm được viết dựa trên những sự kiện lịch sử có thật diễn ra, mà nổi bật hơn hết là phản ánh sự tương tranh giữa ba tập đoàn phong kiến lớn Ngụy, Thục, Ngô. Tác phẩm này mang giá trị lịch sử và quân sự to lớn, vạch trần tội ác và sự tàn bạo của giai cấp thống trị với với con dân, đẩy họ vào bần cùng, bế tắc, do đó trong họ luôn ẩn chứa một ước mơ, khao khát về những vị vua hiền tướng giỏi, đủ sức đủ tài để có thể lãnh đạo, giải thoát họ ra khỏi cảnh áp bức, khốn cùng. Hồi trống Cổ Thành là tên gọi do người biên soạn đặt, đoạn trích không phải toàn bộ hồi 28 mà là một phần giữa được trích ra, với hai câu thơ mở đầu “ Chém Sái Dương anh em hòa giải Hồi Cổ Thành tôi chúa đoàn viên”. Ở Tam Quốc diễn nghĩa, có rất nhiều nhân vật anh hùng song tiêu biểu phải nhắc đến Quan Công và Trương Phi, hai nhân vật này là hai nhân vật đóng vai trò trung tâm trong đoạn trích Hồi trống Cổ Thành. Đoạn trích thuật lại cuộc hội ngộ, đoàn tụ và giải quyết hiềm khích giữa hai anh em Quan Công và Trương Phi, đồng thời đề cao lòng trung nghĩa và tài năng của cả hai. Quan Công nổi tiếng tài ba Đoạn trích được chia thành ba phần chính tương thích với ba giai đoạn, phần một là cuộc gặp mặt giữa Quan Công và Trương Phi, phần hai là diễn biến cũng là cao trào xung đột, mâu thuẫn lên đến đỉnh điểm, tiếp nối phần hai là phần ba mâu thuẫn được giải quyết, anh em đoàn tụ. Đoạn trích kể về cuộc chạm tráng đầy kịch tính giữa Quan Công và Trương Phi đương lúc cả hai đang xảy ra mâu thuẫn. Quan Công trên đường hộ tống hai người chị dâu đi tìm Lưu Bị cần vượt qua các cửa ải của các tướng giặc Tào, vì Tào Tháo suy tính Quan Công là người hữu dụng muốn giữ lại dùng cho sau này nên không cấp giấy phép cho Quan Công qua ải, nhưng cũng không cho người truy bắt. Trước tình thế tiến thoái lưỡng nang, Quan Công quyết định mở cho mình một con đường máu, giết sạch các tướng giặc ở năm ải. Đến trước Cổ Thành, ông nghe ngóng được Trương Phi – người em kết nghĩa đang ở đó, ông vui mừng khôn xiết, những tưởng sẽ có cuộc đoàn viên sum họp nhưng Trương Phi vốn bản tính đa nghi, nghĩ rằng Quan Công ăn ở hai lòng đến bắt mình nộp cho Tào Tháo; mặc kệ Quan Công và hai người chị dâu phân trần, Trương Phi quyết không mở cửa thành, buông lời mắng nhiếc, phỉ báng còn dọa đánh Quan Công. Đúng lúc đó, tướng giặc Tào là Sái Dương mang quân đến, điều này càng làm mối nghi ngờ của Trương Phi tăng thêm, không biết làm cách nào để giải thích cho em, Quan Công hứa chặt đầu Sái Dương để chứng minh mình trong sạch. Thấy Quan Công quả quyết vậy, Trương Phi đưa ra điều kiện sau ba hồi trống, Quan Công phải chặt được đầu Sái Dương thì mới tin. Trương Phi vừa đánh lên hồi trống đầu tiên, Sái Dương đã đầu rơi xuống đất, thấy vậy Trương Phi nguôi giận, cho phép Quan Công cùng hai người chị dâu vào thành; sau khi nghe cả ba phân trần, Trương Phi hiểu rõ đầu đuôi ngọn ngành mọi chuyện, rỏ nước mắt khóc, cúi lạy Quan Công. Cổ Thành cũng chính là cửa ải thứ sáu mà Quan Công phải vượt qua, đây là cửa ải hiểm hóc nhất thử thách lòng trung nghĩa. Nếu ở năm cửa ải trước, kẻ thù được xác định trước mắt là tướng giặc, Quan Công sẽ dễ dàng đưa ra quyết định diệt trừ, dù có hiểm nguy, chông gai nhưng nó chẳng là gì so với nỗi oan mà Quan Công đang phải chịu, bởi ông là một vị chủ tướng vì thế oan tình của ông cũng có phần đặc biệt. Rõ ràng là người ngay thẳng, cương trực nhưng trước sự nghi oan của người em kết nghĩa, Quan Công phải nhún nhường để thanh minh, ông còn cầu cứu hai người chị dâu nhờ phân trần hộ mình. Không phải Quan Công không đủ sức phá thành vượt ải, mà nói một cách chính xác hơn, Quan Công coi trọng lòng trung nghĩa, ông không thể coi người em kết nghĩa là kẻ thù cho được. Người đời gọi ông là người tuyệt nghĩa, song mấy ai hay chữ nghĩa cũng có hai mặt bao gồm trung nghĩa và tín nghĩa, trong trung nghĩa ai cũng biết đến là trung quân ái quốc, nhưng còn phần tín nghĩa với anh em, bạn bè cũng không nên xem nhẹ. Qua đoạn trích trên tác giả muốn người đọc thấy được tài năng cũng như bản lĩnh của Quan Công, một người luôn cẩn trọng với lòng trung nghĩa tuyệt đối. Đối lập với đó là tính cách nóng nảy, hấp tấp của Trương Phi. Tác giả muốn dùng Quan Công để làm nền nhằm để tính cách Trương Phi được bộc lộ một cách rõ ràng nhất có thể. Mặc dù hai tính cách có phần đối lập nhưng xét cho cùng họ đều là những người tài, mong muốn cống hiến sức mình cho đất nước vậy nên tác giả không biểu thị thái độ phê phán hay coi thường bất kì ai mà bằng lời nói và hành động biểu thị rõ nét tính cách của họ. “Hồi trống” gợi lên không khí chiến trận kịch tính làm nên đỉnh điểm cuộc xung đột giữa hai anh em Quan Công và Trương Phi, nhưng cùng với đó mâu thuẫn giữa Quan Công và Sái Dương cũng đồng thời được phản ánh, tuy chỉ là mâu thuẫn thứ yếu trong cuộc xung đột chính nhưng chúng ta không thể phủ nhận sự góp phần của nó giúp cao trào được đẩy lên đỉnh điểm, nó cũng chính là chiếc chìa khóa mở ra nút thắt mâu thuẫn. Hồi trống là sự thách thức các bậc trượng phu, nó như một chướng ngại bắt buộc vượt qua để làm nên chiến tích, ở đây hồi trống chính là công cụ mà quan tòa – Trương Phi dùng để phán xét Quan Công trung thành hay phản bội, ba hồi trống là ba cơ hội dành cho Quan Công. Và ba hồi trống cũng là dấu hiệu cho sự hóa giải mọi hiềm khích giữa hai anh em, là ba hồi trống đoàn tụ gia đình. Với lời kể hấp dẫn, lôi cuốn, đoạn trích khiến người đọc như chính tai nghe mắt thấy tất thảy sự việc diễn ra, chúng trở nên sinh động một cách lạ kỳ. Hồi trống Cổ Thành có kết cấu hoàn chỉnh như một vở kịch chính thống hơn là một câu chuyện. Thay vì tác giả chỉ ra tính cách cũng như áp đặt cho nhân vật một tính cách một hình tượng đặc trưng thì La Quán Trung lại lựa chọn để nhân vật tự bộc lộ tính cách cũng như bản lĩnh thông qua lời nói và hành động, điều này cho thấy tác giả vô cùng thông minh bởi cách này giúp nhân vật trở nên thật và có hồn hơn. Đọc qua đoạn trích tự bản thân người đọc hình dung được hai bức tượng đài sừng sững về lòng trung nghĩa; sự chân thành có ở hai anh em Quan Công và Trương Phi. Trương Phi - vị mãnh tướng tài ba nhưng nóng nảy Nói về nghệ thuật chúng ta không thể bỏ qua cách tạo dựng tình huống truyện có cao trào và đầy kịch tính của tác giả. Cao trào của truyện được lồng ghép vào đó nhiều tình tiết hấp dẫn, nhất là các mâu thuẫn có mối liên hệ với nhau, chính mâu thuẫn này làm nền để bật lên mâu thuẫn kia và ngược lại, chúng tác động nhau theo nhiều cách nhưng dù ở cách nào đi chăng nữa, nhờ có chúng cao trào mới được đẩy lên một cách đỉnh điểm thỏa mãn nhu cầu người đọc. Việc chọn lựa những chi tiết đưa vào truyện cũng là một trong các yếu tố góp phần làm nên thành công của Hồi trống Cổ Thành. Kết bài Tác phẩm Hồi trống Cổ Thành trích trong hồi 28 Tam Quốc diễn nghĩa của La Quán Trung thực sự là bức tranh lịch sử, bức tranh thời đại dựng nên bằng ngôn từ. Dù chủ đề được lựa chọn là chiến tranh là trận mạc, là sự tranh đấu giữa các triều đại song song đó nó vẫn hàm chứa những bài học quý báu về cách làm người. Hơn hết, nó thể hiện tư tưởng Nho giáo của người phương Đông về nhân, lễ, nghĩa, trí, tín, tất cả đều được bộc lộ thông qua các nhân vật. Ngoài giá trị lịch sử to lớn, tác phẩm này của La Quán Trung còn được xem là binh pháp cơ bản, là nghệ thuật đánh trận dụng binh được vận dụng trong cả thời đại ngày nay, bấy nhiêu đó đủ cho chúng ta thấy được sự tồn tại vượt thời gian cũng như sức ảnh hưởng to lớn mà tác phẩm này mang lại. Đây là bài viết cụ thể, cung cấp các luận điểm luận cứ của dạng bài thuyết minh về một tác phẩm văn học. Mong rằng nó sẽ giúp ích cho các bạn trong quá trình học môn Ngữ Văn. Hãy liên tục cập nhật những bài viết mới để có cho mình nhiều hơn cách xử lý các dạng đề bài khác nhau bạn nhé!
thuyết minh về tháp cổ vĩnh hưng